Thứ Hai, 18 tháng 8, 2014
Vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam - Lý luận và thực tiễn
Về mặt lịch sử, vai trò lãnh đạo của Đảng ta đã có ngay từ thời kỳ vận động cách mạng, từ những năm 30 của thế kỷ XX. Khác với nhiều quốc gia, dân tộc, Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời trước khi quốc gia ta được thành lập. Nói xác thực hơn, Đảng ta là người thành lập và lãnh đạo các tổ chức chính trị và Nhà nước Việt Nam dân chủ cộng hòa (1945), nay là nước CHXHCN Việt Nam. Dựa trên ý kiến cách mệnh là sự nghiệp của quần chúng, ngay từ khi mới ra đời (1930), Đảng ta đã chủ trương đoàn kết mọi lực lượng dân tộc và dân chủ trong chiến trường Dân tộc hợp nhất. Vào thời điểm cao trào cách mệnh Xô Viết Nghệ Tĩnh, ngày 18-11-1930, Đảng Cộng sản Đông Dương (nay là Đảng Cộng sản Việt Nam) quyết định thành lập Hội phản đế đồng minh-tiền thân của chiến trận giang san Việt Nam. Dưới ảnh hưởng của Đông Dương cộng sản Đảng (tổ chức tiền thân của Đảng CSVN), ngày 28-7-1929, Tổng Công hội đỏ trước tiên ở miền Bắc Việt Nam ra đời. Đây là tổ chức tiền thân của Công đoàn Việt Nam hiện tại. Ngày 20-10-1930, Hội liên hợp nữ giới Việt Nam được thành lập; ngày 26-3-1931, Đoàn thanh niên cộng sản Việt Nam (nay là Đoàn thanh niên cộng sản Hồ Chí Minh) được thành lập... Về Nhà nước, “Đại hội Quốc dân” (họp ở Tân Trào ngày 16-8-1945) là tiền thân của Quốc hội và “Ủy ban Dân tộc giải phóng Trung ương”, tiền thân của nước Việt Nam dân chủ cộng hòa (nay là nước Cộng hòa XHCN Việt Nam) cũng do Đảng ta thành lập. Sự nghiệp xây dựng và bảo vệ giang san của nhân dân ta cho đến nay là thành tựu của cuộc tranh đấu giành độc lập dân tộc, hợp nhất đất nước, xây dựng và bảo vệ giang san XHCN do Đảng Cộng sản Việt Nam (CSVN) đứng đầu là chủ toạ Hồ Chí Minh lãnh đạo. Trong cuộc cách mạng đó, hàng triệu đội viên cộng sản đã hy sinh, để lại một phần xương máu trên mặt trận, hoặc mang trong mình những căn bệnh quái do ảnh hưởng của chất độc da cam/đi-ô-xin… Với những đóng góp to lớn đó của Đảng CSVN đối với dân tộc, tuyệt đại bộ phận quần chúng. # Việt lam bien quang cao Nam đã coi Đảng CSVN là Đảng của mình và đi theo con đường mà Chủ tịch Hồ Chí Minh và Đảng CSVN đã xác định. Do vậy, vai trò lãnh đạo của Đảng CSVN được quy định ở Điều 4, Hiến pháp 2013 là hoàn toàn hợp lý, không phải là “toàn trị”, không là “độc đoán” như ý kiến của một số người. Trên lĩnh vực tư tưởng chính trị, nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho hành động của Đảng CSVN là Chủ nghĩa Mác - Lê-nin, Tư tưởng Hồ Chí Minh. Tuy nhiên, trong chiều dài gần 3/4 thế kỷ qua, Đảng ta đã ứng dụng và phát triển sáng tạo lý luận đó ăn nhập với hoàn cảnh lịch sử Việt Nam và thuận theo quy luật phát triển của nền văn minh nhân loại, đó là giành độc lập dân tộc và phóng thích quần chúng thoát khỏi ách áp bức, bóc lột của thực dân phong kiến. Tư tưởng này đã được biểu đạt mạnh mẽ trong "Tuyên ngôn Độc lập", do Chủ tịch Hồ Chí Minh soạn thảo và ban bố vào ngày 2-9-1945. Không phải ngẫu nhiên Người đã trân trọng trích dẫn “Tuyên ngôn độc lập (1776) của Mỹ; Tuyên ngôn nhân quyền và dân quyền của Pháp (1789), trong văn kiện khai sinh ra Nhà nước Việt Nam dân chủ cộng hòa. Đường lối cách mạng “độc lập dân tộc gắn liền với CNXH” mà nội dung là bảo vệ độc lập dân tộc, chủ quyền quốc gia, vẹn toàn lãnh thổ, gắn liền với xây dựng giang sơn theo con đường XHCN. Không phủ nhận rằng trong một đôi thời kỳ lịch sử, trong một số chính sách của Đảng CSVN cũng có những sai trái, giáo điều về lý luận, nhất là giáo điều trong việc học hỏi kinh nghiệm nước ngoài. Đảng ta đã phát hiện sai lầm và tu chỉnh. Có thể nói ở những bước ngoặt của cách mạng, Đảng CSVN đã “nhìn thẳng vào sự thực” điều chỉnh và phát triển sáng tạo đường lối cách mệnh đưa sự nghiệp xây dựng và bảo vệ đất nước của nhân dân ta vững bước tiến lên. Tư tưởng về xây dựng quốc gia pháp quyền đương đại đã được Đảng ta nghiên cứu vận dụng, trong việc xây dựng Nhà nước Cộng hòa XHCN Việt Nam. Dưới sự lãnh đạo của Đảng ta, Hiến pháp 2013 đã thiết lập thể chế: “Quyền lực quốc gia là thống nhất, có sự cắt cử, phối hợp, kiểm chi tiết soát giữa các cơ quan Nhà nước trong việc thực hành các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp”. Công tác cách tân tư pháp theo Nghị quyết của Đảng đang được triển khai hăng hái, trong đó các quyền con người và quyền công dân được trọng và bảo vệ. Phương án tổ chức tòa án quần chúng. # (TAND) sơ thẩm khu vực, không phụ thuộc vào địa giới hành chính nhằm đề cao tính độc lập, khách quan, trong hoạt động xét xử, hạn chế sự lệ thuộc giữa tòa án với cơ quan hành chính Nhà nước ở địa phương; đảm bảo thực hiện đúng nguyên tắc Hiến định về tổ chức và hoạt động của TAND là “khi xét xử, quan toà và hội thẩm nhân dân độc lập và chỉ tuân theo pháp luật” sẽ được chỉnh sửa phê chuẩn trong thời kì không xa. Đại đoàn kết dân tộc và kết đoàn quốc tế không chỉ là một nội dung tư tưởng chính trị mà chính là sức mạnh của cách mạng Việt Nam. Trong bối cảnh cuộc chiến tranh bảo vệ sơn hà kéo dài tới 30 năm, xã hội ta không thể tránh khỏi những dị biệt nào đó về ý kiến chính trị. Tuy nhiên, cho đến nay quan điểm của Đảng ta là: “Đại đoàn kết toàn dân tộc lấy mục tiêu giữ vững độc lập, hợp nhất giang sơn, vì dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh làm điểm tương đồng; xóa bỏ tự ti, thành kiến, phân biệt đối xử về quá khứ, thành phần, giai cấp, xây dựng ý thức cởi mở, tin cậy lẫn nhau, cùng hướng tới tương lai”. Những người cho rằng, đến nay sự lãnh xem thêm đạo của Đảng đã “kìm hãm tự do, dân chủ và chia rẽ dân tộc”, phải chịu nghĩa vụ trước lương tâm và lịch sử. Trên lĩnh vực đối ngoại, đường lối nhất quán của Đảng ta là: Độc lập, tự chủ, hòa bình, hiệp tác và phát triển. Nguyên tắc trong quan hệ quốc tế của Đảng ta là: cộng tác bình đẳng, cùng có lợi với toàn bộ các nước trên cơ sở những nguyên tắc cơ bản của Hiến chương Liên hợp quốc và luật pháp quốc tế. Trên lĩnh vực xây dựng Đảng, không phủ nhận rằng, trong một thời kì khá dài, nhất là từ khi nước ta chuyển sang nền kinh tế thị trường, Đảng ta chưa quan tâm đúng mức đến chống suy thoái về tư tưởng, chính trị, đạo đức và lối sống của cán bộ trong hệ thống chính trị nói chung, trong nội bộ Đảng nói riêng. Điều này đã được Hội nghị Trung ương 4 (khóa XI) chỉ rõ và đã đề các biện pháp khắc phục. Trong điều kiện Đảng ta là đảng lãnh đạo, cầm quyền, cuộc đấu tranh này kiên cố sẽ gặp không ít khó khăn. Điều quan yếu là chủ trương này đã được tuyệt đại đa số cán bộ, đảng viên và dân chúng ủng hộ; được Quốc hội ta đặc biệt quan tâm, thể chế hóa trong Hiến pháp 2013 và chỉnh sửa các đạo luật trong thời gian tới. Trên lĩnh vực pháp lý, vai trò lãnh đạo, cầm quyền của Đảng CSVN đã được nhân dân ta khẳng định phê duyệt văn kiện quan trọng nhất của quốc gia, đó là Hiến pháp. Hiến pháp 2013 đã quy định rõ vai trò và khuôn khổ hoạt động của Đảng CSVN. Điều 4 quy định: “Đảng CSVN… là lực lượng lãnh đạo Nhà nước và tầng lớp… Các tổ chức của Đảng và đảng viên Đảng CSVN hoạt động trong khuôn khổ Hiến pháp và pháp luật” (Điều 4, Hiến pháp 2013). Đảng CSVN lãnh đạo quốc gia và xã hội bằng các chủ trương, đường lối, chính sách, bằng việc giới thiệu cán bộ, đảng viên tham dự hệ thống chính trị và bằng sự nêu gương của đảng viên. Nếu ở đâu đó cấp ủy quyết định những vấn đề thuộc về chính quyền thì đó là sai lầm khuyết điểm của cấp ủy và đảng viên của đảng ở đó. Vì vậy, những ai cho rằng, đến nay Đảng ta “vẫn giữ nguyên thể chế độc đảng toàn trị”, hoặc cho rằng, Đảng CSVN đứng “trên quốc gia và pháp luật” là không phù hợp với ý kiến của Đảng cũng như thực tế cách mệnh nước ta. Như vậy, sự lãnh đạo của Đảng CSVN là nguyên tố quyết định mọi chiến thắng của quần chúng. # Ta. Vai trò lãnh đạo, cầm quyền của Đảng ta bắt nguồn từ lịch sử, từ đặc trưng của cuộc cách mạng của dân chúng ta qua gần 3/4 thế kỷ. Vai trò đó đã được đại bộ phận nhân dân đồng thuận, được quy định trong Hiến pháp. Không một cá nhân chủ nghĩa, tổ chức nào có quyền phủ nhận lịch sử, nhân danh “dân chủ” để bóp méo, xuyên tạc sự thật này. PHƯƠNG NHI
Đăng ký:
Đăng Nhận xét (Atom)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét